Trong bài này, mình muốn chia sẻ những kinh nghiệm ít ỏi của mình trong việc nộp hồ sơ cho các chương trình PhD về toàn ở Mỹ. Mình nộp 11 trường. Được 4 trường nhận là UCSD, UCI, Univ of Arizona và UChicago (đẩy lên từ waitlist). Bị 6 trường từ chối là Columbia, UCLA (wait-list), Caltech, Stanford, Wisconsin (wait-list) và Maryland. Trường Emory thì mình xin rút hồ sơ sau khi nhận được offer từ UC Irvine và Arizona. Cuối cùng chọn Chicago vì đó là vừa là trường rất tốt về Toán.
Việc nộp đơn xin học bây giờ khá đơn giản, vì đều làm online. Hạn nộp thì tùy từng trường, nhưng thường rơi vào khoảng từ 15/12 năm bạn nộp tới đầu tháng 2 năm tiếp theo. Bạn phải hoàn thành hồ sơ trước deadline. Sau deadline, trong đa phần trường hợp, hồ sơ của bạn sẽ không được xem xét.
Vậy bạn cần gì trong hồ sơ của mình nộp cho trường? Bạn có thể tìm thấy một phần câu trả lời trong phần dưới đây.
Trước hết, mình xin phép chia sẻ hồ sơ của mình được copy lại từ một trang web khác.
Undergrad Institution: KHTN Hà Nội
Major(s): Mathematics
GPA: 3.83
Type of Student: International
GRE Revised General Test:
V: 149 (40 %)
Q: 164 (89 %)
W: 3.5 (35 %)
GRE Subject Test in Mathematics:
M: 880 (93 %)
TOEFL Score: (99 = R 27 /L 28 /S 20 /W 24 ) (if applicable)
Program Applying: Pure Math
Research Experience: A senior thesis, some summer schools in number theory and algebraic curves.
Awards/Honors/Recognitions: Honda YES, Student Research Workshop.
Pertinent Activities or Jobs: TA for 2 semesters.
Nhìn vào hồ sơ trên, mình nghĩ các bạn cũng có thể mường tượng được những thứ mà bạn phải có. Cụ thể hơn thì như sau.
1) Bảng điểm (GPA).
Nói chung thì điểm Đại học của bạn không ảnh hưởng quá nhiều đến việc bạn có được nhận hay không. Nhưng cố gắng đừng để thấp quá, vì có thể bạn sẽ không qua được vòng screening hoặc gây ấn tượng xấu lên hội đồng tuyển sinh.
2) GRE general.
Cái này theo cảm giác của mình là chỉ cần không quá thấp để qua vòng screening là được. Qua vòng screening thì người ta không quan tâm quá nhiều tới nó nữa thì phải.
Thi GRE thì thực sự khá vất vả vì phải nhớ nhiều từ. Để cải thiện vốn từ, thì nên tích lũy càng sớm càng tốt. Cách tốt để tăng vốn từ của mình là thường xuyên đọc các bài báo hoặc sách bằng tiếng Anh. Bản thân mình rất thích hai trang web sau
+ Scientific American:
Các bài viết phổ biến khoa học. Vừa học tiếng Anh, vừa học thêm nhiều kiến thức bổ ích.
+ The economist:
Có rất nhiều từ GRE phổ biến.
Ngoài ra có nhiều tờ báo khác như NYTimes, New Yorker, BCC NEWS v.v. Nói chung việc đọc báo nào tùy thuộc vào mối quan tâm của bạn. Mình thích đọc những thứ liên quan tới khoa học nên chọn hai trang ở trên.
Ngoài ra đọc các sách tiếng Anh cũng là một cách tốt để bổ sung vốn từ. Mình rất thích quyển “Surely you are joking Mr. Feynman”. Mình nghĩ các bạn cũng sẽ thích quyển này (surely I am NOT joking!).
Tất nhiên, biết từ là một chuyện, để thi tốt thì kĩ năng làm bài cũng quan trọng. Trang web sau đây cho bạn rất nhiều gợi ý về cách học và cách làm bài thi GRE.
http://magoosh.com/gre/
GRE general tổ chức khá thường xuyên, hình như một tháng một lần.
3) GRE subject.
Như trên, nhưng đối với ngành toán thì quan trọng hơn. Kinh nghiệm thi subject của mình là ngồi đọc lại mấy quyển giáo trình hồi đại học. Khoảng 5-6 tháng trước khi thi, mình có làm TA môn Đại số đại cương nên phần này không phải xem lại mấy. Phần Topology thì cũng đơn giản. Phần Calculus chiếm nhiều điểm nhất và cũng là phần có phổ câu hỏi rộng nhất nên cần được ôn kĩ. Lúc thi có gặp mấy câu tương tự với mấy câu hỏi trong phần project của quyển giáo trình 🙂.
Sách học thì chắc chỉ có mỗi quyển Cracking The Math Subject Test. Quyển này bạn có thể dễ dàng tìm trên mạng (nếu cần, gửi thư cho mình ở địa chỉ nguyenthotung[AT] gmail [DOT]com.)
GRE subject một năm chỉ tổ chức 3 lần, vào các tháng 4, 10,11. Nhiều người đăng kí thi 2 lần vào tháng 10 và tháng 11. Mình nghĩ nếu bạn muốn chắc chắn thì cũng có thể làm như vậy. Hồi trước mình chỉ thi một lần vào tháng 11, vì không đăng kí kịp cho đợt tháng 10.
Chỉnh lại: Lịch thi có thay đổi theo từng năm nên để chắc chắn mọi người xem lại trên trang web của ets.
4*) TOEFL/IELTS
Một số bạn chắc sẽ rất ngạc nhiên khi mình cho điểm TOEFL quan trọng hơn GRE. Mình xin giải thích ngay rằng, ý ở đây của mình là điểm speaking. Nếu bạn nộp tự do thì điểm speaking rất quan trọng; đặc biệt nếu trường muốn bạn làm TA ngay trong kì đầu tiên. Nói chung mức độ quan trọng của điểm speaking phụ thuộc rất nhiều vào chính sách của từng trường. Có trường rất khắt khe đối với điểm speaking (Maryland, UW in Seattle, Boston University, Minnesota chẳng hạn). Có những trường lại khá thoải mái (như Chicago chẳng hạn). Nếu bạn có VEF, hoặc được Giáo sư trong khoa đảm bảo, thì điểm TOEFL không còn quá quan trọng nữa.
Điểm speaking của mình khá tệ, được có 20/30. Thày Greenberg có bảo cố gắng được 22-23 mà mình cố mãi mà không được! Lúc bị trượt Maryland, Thày hỏi bạn của Thày, là Graduate Director ở đó thì ông ý bảo là điểm speaking mà dưới 23 thì đa phần là bị loại ở vòng screening. Tất nhiên việc bị Maryland loại cũng một phần do hồ sơ của mình chưa đủ mạnh, nhưng mình nghĩ một phần không nhỏ là do speaking tệ quá.
Lời khuyên của mình là nếu bạn nộp tự do, không quen biết ai trong khoa thì cố gắng hết sức để nâng điểm speaking. Thay vì cày cuốc để nâng điểm GRE general thì mình nghĩ nên dành thời gian đó để nâng điểm speaking.
Các bạn có thể học một số tips cho phần speaking của TOEFL ở trang
https://www.notefull.com/
Một số trường, ngoài kiểm tra điểm TOEFL của bạn, họ còn phỏng vấn bạn (qua skype, điện thoại) để đảm bảo rằng bạn có thể làm TA được. Do đó, ngoài chuyện luyện thi, bạn cũng cần rèn luyện kĩ năng giao tiếp bằng tiếng Anh.
Ngoài ra, phần listening của TOEFL cũng khá khó. Để cải thiện khả năng nghe thì cách duy nhất là nghe nhiều và thường xuyên. Ngày nay, với internet, bạn có rất nhiều nguồn để luyện nghe. Bản thân mình thích các chương trình của CNN vì nó đa dạng và có American Accent. Youtube cũng cho bạn nhiều bài nghe thú vị. Nếu bạn mới bắt đầu học tiếng Anh, thì có thể bắt đầu với VOA NEWS.
TOEFL thì tổ chức khá nhiều, hình như mỗi tuần một lần.
5) Statement of purpose
Đây là một phần quan trọng của hồ sơ. Nó giúp bạn tạo cơ hội cho hội đồng tuyển chọn biết bạn là ai. Mình thấy nhiều bạn trong SOP viết quá nhiều về các kết quả nghiên cứu của mình, là cái các GS đã biết. Cái họ cần hơn là thông tin về bạn (bạn đã trưởng thành về mặt con người và về mặt nghiên cứu thế nào v.v), cái mà người ta chưa biết. Nói chung viết SOP rất khó, bạn nên tham khảo ý kiến của các anh chị NCS.
6) Kinh nghiệm nghiên cứu/Thư giới thiệu
Đây là thành phần quan trọng nhất trong hồ sơ của bạn. Chúng cho ban tuyển chọn thấy khả năng thành công của bạn trong nghiên cứu . Đây chính là điều mà họ mong muốn ở bạn nếu nhận bạn.
Muốn có kinh nghiệm nghiên cứu thì phải… nghiên cứu. Đầu tiên là tìm thày hướng dẫn, sau đó thì thày sẽ chỉ cho con đường đi thôi 🙂. Các thày ở Khoa Toán và ở Viện Toán đều rất giỏi và nhiệt tình.
Bạn có thể xin thư giới thiệu từ các GS mà bạn làm việc cùng, hoặc các GS dạy bạn trong một khóa học và có ấn tượng tốt về bạn. Thư giới thiệu trong trường hợp 1 tốt hơn, vì chúng nói về khả năng nghiên cứu của bạn. Nhưng thông thường chúng ta thường chỉ có 1-2 thư loại này. Thư loại 2 tuy không tốt bằng, nhưng cũng thể hiện được nhiều thứ: bạn thực sự yêu thích toán, bạn ‘ask good/right questions’ hoặc có thể giới thiệu chương trình bạn học (Cử nhân tài năng chẳng hạn) và thứ hạng của bạn trong lớp v.v
Một điều may mắn là ở khoa Toán các thày sẽ viết thư cho các bạn. Ở một số nơi, sinh viên phải tự viết thư sau đó đưa thày kí.
Nếu bạn có bài báo quốc tế thì quá tốt, không có thì cũng … ok. Quan trọng nhất vẫn là thư giới thiệu. Nếu thư giới thiệu của bạn tốt thì cơ hội bạn được nhận sẽ rất cao.
*) Ngoài ra còn có nhiều thứ ảnh hưởng tới hồ sơ.
+) CV. Trình bày bằng latex cho chuyên nghiệp.
+) Quen biết Giáo sư. Không như các ngành khác, việc contact được GS bên Toán gần như là zero nếu như bạn không gặp GS ấy từ trước. Trong số các trường mình nộp, chỉ có Arizona và Chicago là mình quen các GS ở đó (cả hai đều là GS người Việt). Tuy mình chưa quyết đinh có làm cùng các GS này không, các Thày vẫn giới thiệu mình với hội đồng tuyển chọn (đối với Chicago) và giới thiệu mình với các GS mình muốn làm cùng (đối với Arizona). Thật may mắn là cuối cùng được cả hai trường nhận.
Mình nghĩ các thày người Việt đều muốn giúp đỡ sinh viên Việt Nam sang học nên nếu các bạn nộp hồ sơ, có thể trình bày nguyện vọng với các Giáo sư này. Tuy nhiên phải hiểu rằng các thày rất bận, lại không biết bạn là ai (nếu chưa gặp, và không ai giới thiệu bạn trực tiếp tới GS đó), do đó nếu bạn không nhận được phản hổi, hãy hiểu tình huống của mình.
+) Writing sample. Có trường cho phép bạn gửi cả writing sample. Trong trường hợp này, khóa luận của bạn (bằng tiếng Anh, tất nhiên) có thể coi là một mẫu tốt.
+) May mắn. Tất nhiên rồi.
Quy trình nộp hồ sơ
Như mình đã nói ở phần đầu, hạn nộp ở các trường ở Mỹ rơi vào khoảng giữa tháng 12 tới đầu tháng 2. Họ sẽ cho phép bạn lập một tài khoản, sau đó bạn sẽ dùng tài khoản này để điền vào hồ sơ bao gồm: tên, học Đại học ở đâu, kết quả thế nào, ai là người sẽ gửi thư giới thiệu cho trường v.v. Bạn cũng phải yêu cầu ETS (là cơ quan tổ chức thi TOEFL và GRE) gửi điểm tới cho trường. Nói chung thì công đoạn này khá đơn giản. Tuy nhiên, bạn cũng phải nộp kha khá tiền cho việc nộp hồ sơ. Thông thường, bạn sẽ mất khoảng 40$ cho việc gửi điểm TOEFL và GRE, khoảng 80$ cho lệ phí nộp hồ sơ. Như vậy nếu bạn nộp cỡ khoảng 10 trường thì cũng mất khoảng 1200$, một con số khổng lồ với sinh viên Việt Nam. Ở Mỹ, có lẽ không có gì miễn phí. Bạn phải trả tiền cho cơ hội mình có thể nhận được. Nhưng bù lại, nếu được nhận thì chỉ trong vòng 1-2 tháng đầu tiên sau khi nhận học là bạn có thể ‘bù lại vốn’. Mình biết có một anh phải thế chấp cả nhà để nộp qua Mỹ (quá khâm phục!). Sau khi qua được một thời gian thì trả được nợ. Mình không dám khuyên bạn gì cả, nhưng nếu bạn chấp nhận nộp hồ sơ, hãy cố gắng hết sức để xứng đáng với đồng tiền bỏ ra (trong nhiều trường hợp, là số tiền mà bố mẹ bạn phải rất vất vả mới kiếm được). Một cách để giảm gánh nặng tài chính là xin học bổng VEF. Chi tiết bạn có thể xem tại http://home.vef.gov/.
Sau tầm 1-2 tháng, trường sẽ thông báo kết quả cho bạn. Nếu bạn được nhận, chúc mừng! Nếu không được, bạn vẫn còn cơ hội ở các trường khác. Có một số bạn sẽ vào danh sách đợi (waitlist); nghĩa là bạn chưa biết là mình có được hay không. Việc được hay không phụ thuộc vào việc có nhiều hay ít các bạn được nhận ở vòng đầu quyết định bỏ học bổng và qua chỗ khác học. Vào đến waitlist thì việc duy nhất bạn làm là … đợi thôi. Nói chung việc được hay không là rất khó đoán. Có nhiều bạn được trường rất tốt nhận nhưng lại bị đánh trượt bởi các trường nhỏ hơn. Việc duy nhất bạn có thể làm là nắm bắt từng cơ hội và hãy cố gắng hết mình. Sẽ vất vả, nhưng những gì bạn nhận được sẽ hoàn toàn xứng đáng với sự vất vả ấy.
Một số bài viết mình cho là hữu ích, các bạn có thể tham khảo.
1) Bài viết của GS Lê Tự Quốc Thắng về việc xin TA ở Mỹ.
thang
2) Bài viết của anh Huỳnh Quang Vũ, Đại học KHTN TPHCM.
http://www.math.hcmus.edu.vn/~hqvu/misc/scholarship-vi.html
3) Chia sẻ của GS Paul Garret về việc tuyển chọn ứng viên.
https://academia.stackexchange.com/questions/2544/how-does-a-graduate-programs-admissions-committee-operate
4) Chia sẻ của GS Paul Garret về việc có bài báo khi nộp hồ sơ.
https://academia.stackexchange.com/questions/10747/what-percentage-of-stem-phd-applicants-have-peer-reviewed-publications
Nguyễn Thọ Tùng
28/5/2014.